Tô Lâm hùng hồn tuyên bố: “Tài nguyên quý nhất của Việt Nam là 106 triệu người.” Câu nói tưởng chừng tôn vinh dân tộc, nhưng thực chất lại là lời thú nhận lạnh lùng: mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước đã bị khai thác đến tận cùng. Than đá, dầu mỏ, bauxite, đất hiếm – tất cả cạn kiệt. Từ Tây Bắc đến Trường Sơn, rừng bị đốn sạch; biển Đông ngập trong ô nhiễm, cá chết, san hô tàn phá. Khi mỏ quặng chỉ còn đá, khi rừng chỉ còn gốc, Đảng quay sang “khai thác” con người – nguồn lợi cuối cùng còn sót lại.
Thanh niên trai tráng bị đẩy ra nước ngoài làm thuê ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, chịu cảnh làm việc 12–14 tiếng mỗi ngày, lương rẻ mạt, tai nạn rình rập. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu hơn 160.000 lao động, mang về 4,5 tỷ USD – nhưng đằng sau con số ấy là hàng nghìn gia đình tan nát, những quan tài lạnh lẽo hồi hương. Đây không phải “hợp tác lao động”, mà là buôn người hợp pháp – nơi từng giọt mồ hôi, từng mạng sống của dân bị quy đổi thành ngoại tệ nuôi bộ máy phình to.
Không chỉ đàn ông, hàng vạn cô gái trẻ cũng bị lừa vào các đường dây mại d.â.m quốc tế ở Singapore, Malaysia, Dubai hay châu Âu – từ giấc mơ đổi đời hóa thành ác mộng bị bóc lột, bệnh tật và khinh miệt. Trong nước, người tài, trí thức, kỹ sư, bác sĩ lần lượt rời bỏ quê hương, vì không còn chỗ cho năng lực thật – chỉ còn chỗ cho nịnh bợ và phe cánh.
106 triệu người dân đang bị biến thành món hàng: công nhân xuất khẩu, sinh viên vay nợ du học, người bệnh tự lo viện phí. Khi con người không còn là chủ nhân đất nước mà trở thành “tài nguyên để khai thác”, thì chế độ ấy đã thừa nhận mình kiệt quệ cả vật chất lẫn đạo đức.
Một khi dân nhận ra mình không phải tài sản quốc gia mà là nô lệ của thiểu số quyền lực, cơn phẫn nộ sẽ bùng lên. Và khi đó, không một lời tuyên bố hoa mỹ nào có thể cứu nổi một chính thể đã tự bán đứng linh hồn dân tộc để đổi lấy quyền lực và tiền bạc.










