Chuyên gia phản biện Luận án Tiến sĩ Luật của ông Thích Chân Quang

Ngày 27/6, BBC Tiếng Việt cho hay “Luận án Tiến sĩ Luật của nhà sư Thích Chân Quang bị mổ xẻ, giải mã vụ tốt nghiệp “thần tốc”’.

Theo đó, Thượng tọa Thích Chân Quang tốt nghiệp tiến sĩ “thần tốc” tại trường Đại học Luật Hà Nội, đang là đề tài nóng gây tranh cãi trong dư luận Việt Nam.

BBC đề cập đến những thắc mắc, bằng cách nào mà ông Vương Tấn Việt, tức Thượng tọa Thích Chân Quang, có thể bảo vệ luận án tiến sĩ vào tháng 12/2021, trong khi chỉ vừa nhận bằng Cử nhân Luật tại chức, vào tháng 1/2019.

Việc này đã chính thức trở thành “đề tài” phải xử lý, đối với trường Đại học Luật Hà Nội.

BBC cho biết, hôm 25/6, Bộ Giáo dục Đào tạo đã gửi công văn, yêu cầu trường Đại học Luật Hà Nội báo cáo khẩn trương về quá trình tuyển sinh, đào tạo đối với nghiên cứu sinh Vương Tấn Việt.

BBC dẫn phản biện về mặt học thuật của ông Nguyễn Quốc Tấn Trung, đăng trên tài khoản YouTube Hội Đồng Cừu, từ năm 2022, đối với đề tài Luận án Tiến sĩ của ông Vương Tấn Việt.

Ông Nguyễn Quốc Tấn Trung là nghiên cứu sinh tiến sĩ, ngành công pháp quốc tế, tại Đại học Victoria, Canada, học giả thỉnh giảng năm 2024 tại Học viện Luật Quốc tế The Hague, tập trung vào Khủng hoảng quốc tế.

BBC chỉ ra cách hiểu về “Quyền con người” của ông Thích Chân Quang, trong Luận án Tiến sĩ có nhan đề “Nghĩa vụ con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”.

Theo đó, ông Chân Quang nói rằng, “quyền luôn luôn phải đi đôi với nghĩa vụ”, và trong một số trường hợp, thì nghĩa vụ còn phải đi trước quyền.

Ông khẳng định rằng, “thế giới đã hiểu sai về nhân quyền quá nhiều”.

BBC dẫn phản biện của chuyên gia Nguyễn Quốc Tấn Trung, rằng, cách đặt vấn đề của ông Vương Tấn Việt rất “khác biệt” so với thế giới. Bởi mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu mà ông Việt xác định, là đưa ra “tuyên ngôn toàn cầu về nghĩa vụ con người”. Và điều này “nghe như một đối trọng của “Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người”, do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1948”.

Cụ thể, ông Trung phân tích:

“Luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc tế về nhân quyền nói riêng, được đặt ra và biến nhân quyền trở thành phổ quát, cơ bản chủ yếu vì người ta không muốn những quyền cơ bản này bị biến thành quyền có điều kiện, bởi nhà nước của từng quốc gia.”

“Có nghĩa, mục tiêu của các quốc gia khi ngồi lại với nhau từ thập niên 50 đến gần cuối thập niên 80, bao gồm không chỉ các nhà nước phương Tây mà đại đa số là các nhà nước mới được thành lập, mới thoát khỏi chủ nghĩa thực dân, để xác lập rằng, quyền nào là quyền phổ quát, cơ bản, không thể tách rời.”

“Và nghĩa vụ mà ông Quang nói tới, là một dạng điều kiện cho những quyền này.”

Ông Trung nêu 3 ví dụ:

Thứ nhấtCông ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Điều 1, Quyền dân tộc tự quyết.

“Đây là nền tảng pháp lý để người Việt Nam và các dân tộc đang bị đô hộ, bị thống trị bởi chủ nghĩa thực dân, sử dụng để đấu tranh giành lại độc lập của mình. Từ đó tách cấu trúc nhà nước của họ, ra khỏi cấu trúc nhà nước thực dân.”

“Đây là quyền đương nhiên và pháp luật quốc tế trao quyền này cho các dân tộc để họ tự định đoạt số phận của mình.”

Thứ hai, Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Điều 3, Quyền bình đẳng giới tính

Người nữ hoặc người thuộc tính thứ 3 không có nghĩa vụ gì để được bình đẳng với nam giới.

Thứ ba, Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Điều 7: Quyền không bị tra tấn

Con người không cần thực hiện nghĩa vụ gì để được hưởng quyền này, kể cả khi vi phạm mọi tiêu chuẩn đạo đức xã hội, như trốn thuế, không cấp dưỡng cho con, bị tình nghi giết người,… “thì quyền này vẫn còn để bảo vệ cho bạn”.

“Nó là rào chắn để ngăn chặn những lạm dụng, xâm phạm, trong những trường hợp đặc biệt. Là nền tảng để tránh án oan sai”, ông Trung nói.

Theo ông Trung, “vấn đề là, khi đặt một câu hỏi nghiên cứu, mà nó phủ nhận, lật ngược toàn bộ giá trị, mục tiêu, mục đích của một ngành luật”, thì ông Thích Chân Quang cần phải xem lại cách đặt câu hỏi của mình.

Cuối cùng, ông Trung nhấn mạnh rằng, việc xem xét, tìm ra cho bằng được nghĩa vụ, để đổi lại những quyền cơ bản đã được luật pháp quốc tế về nhân quyền ghi nhận, là “đặc biệt nguy hiểm” và “đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến diễn ngôn chính trị”.

 

Minh Vũ – thoibao.de