Đỡ sợ Bắc Kinh: Việt Nam lần đầu phản đối Trung Quốc lên LHQ

Việt Nam vừa gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để phản đối các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo nhận định của giới quan sát thì động thái này có thể là báo hiệu bước đầu cho một tiến trình pháp lý trong tương lai gần nếu như Hà Nội và Bắc Kinh không giải quyết được các tranh chấp trên bàn đàm phán đa phương.

Công hàm do phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc gửi cho Tổng thư ký LHQ Antonio Guterres nói rằng các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông”.

Khẳng định Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, công hàm của Việt Nam nói “vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121 (3) của Công ước; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng”.
Hôm 07/4, nhiều báo của Việt Nam đã đưa tin về động thái mới của Việt Nam, trong đó trang mạng của kênh truyền hình VTC của Việt Nam cho hay: “Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc tại các Công hàm trên. Các yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.” “Phái đoàn của Việt Nam tại LHQ một lần nữa khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam về các vấn đề nêu trên đã được khẳng định trong nhiều văn bản lưu hành tại Liên hợp quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan. Phái đoàn đồng thời đề nghị Tổng Thư ký Liên hợp quốc lưu hành Công hàm này đến tất cả các quốc gia thành viên Công ước, cũng như tất cả các thành viên của Liên hợp quốc,” VTC viết.

Ảnh: 3 tàu hải cảnh TQ uy hiếp rồi đâm chìm tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi hôm 2-4

Công hàm của Việt Nam được gửi đi sau khi hai quốc gia trong khu vực là Philippines và Malaysia đã có cùng động thái tương tự.

Ngày 8 tháng 4 năm 2020, Bộ Ngoại Giao Philippines ra tuyên bố về Vụ Chìm Tàu Cá Việt Nam ở Biển Đông như sau: “Bộ Ngoại giao bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về báo cáo vụ việc tàu Việt Nam bị đâm chìm ở Biển Đông vào ngày 03 tháng 4 năm 2020. Kinh nghiệm tương tự của chúng tôi đã cho thấy niềm tin vào tình bạn đã bị mất như thế nào qua vụ việc như vậy; và niềm tin đã được tạo ra nhiều thế nào bởi hành động nhân văn của Việt Nam trực tiếp cứu mạng sống của ngư dân Philippines của chúng tôi. Chúng tôi đã không ngừng và sẽ không ngừng cảm ơn Việt Nam. Vì thế, chúng tôi đưa ra tuyên bố này để thể hiện tình đoàn kết.”
Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu an ninh và chính trị của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS- có trụ sở ở Singapore, việc gửi công hàm chính thức lên LHQ có thể xem là một bước “rất quan trọng” và “cần thiết” mà Hà Nội thực hiện sau hàng chục năm quốc gia láng giềng tiến hành hàng loạt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông.
Trước giờ Việt Nam gần như chưa bao giờ nói gì với LHQ về chuyện này, vì hiển nhiên LHQ đã giao cho Việt Nam quản lý phần Biển Đông này từ năm 1951, sau khi Nhật Bản và một số nước phải làm thủ tục từ bỏ tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông”, TS. Hà Hoàng Hợp nhận định.
Theo nhà nghiên cứu này, có thể coi việc gửi công hàm lên LHQ là bước đầu cho một vụ kiện của Việt Nam ra quốc tế để chống lại yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.

Ảnh: Tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Philippines về Vụ Chìm Tàu Cá Việt Nam ở Biển Đông – Bản chụp trang web chính thức của Bộ ngoại giao Phillipines

TS. Hà Hoàng Hợp giải thích thêm: “Có thể hiểu được như vậy là bởi vì vào năm 2019, Đảng Cộng sản Việt Nam trong một hội nghị Trung ương đã bàn và quyết định rằng trong trường hợp không thể xử lý được bằng biện pháp đàm phán với Trung Quốc thì sẽ phải tiến hành khởi kiện Trung Quốc”.

Công hàm của Việt Nam chỉ mới được công bố vào ngày 7/4 mặc dù đã được gửi đi từ ngày 30/3, tức là trước khi xảy ra sự kiện mới nhất là tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Việt Nam vào ngày 2/4, khiến Hà Nội ngay lập tức lên tiếng và gửi công hàm phản đối tới Bắc Kinh, trong khi phía Trung Quốc nói rằng tàu cá Việt Nam đánh bắt bất hợp pháp và vụ chìm tàu chỉ là tai nạn không thể tránh khỏi.
Vụ xung đột mới nhất cũng khiến cho Mỹ phải lên tiếng bênh vực Việt Nam và chỉ trích hành động gây căng thẳng của Trung Quốc đối với an ninh trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh cả thế giới đang lao đao vì dịch bệnh Covid-19, vốn xuất phát từ Trung Quốc.
Theo nhận định của TS. Hà Hoàng Hợp, việc Hà Nội công bố công hàm bằng phiên bản tiếng Việt sau khi xảy ra vụ đâm chìm tàu có thể là do “áp lực từ công chúng”.
Đây là một vụ việc rất nghiêm trọng. Nó xảy ra sau ngày 30/3, là ngày mà cơ quan đại diện thường trực của Việt Nam ở LHQ gửi thư phản đối cho Tổng thư ký LHQ. Có lẽ vì lý do đó mà họ xem xét công bố thư này để cho người Việt Nam biết rằng họ đã có hành động như vậy”, TS. Hà Hoàng Hợp nói.

Ảnh chụp: Bản chính Công hàm phản đối của Việt Nam đệ trình lên Liên Hợp Quốc ở New York ngày 30/3

Dựa trên nội dung công hàm, TS. Hà Hoàng Hợp cho rằng có thể hướng đi pháp lý sắp tới của Hà Nội sẽ là đệ trình vụ kiện lên một cơ quan tài phán hoặc một tòa án của LHQ để chống lại yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, tương tự như Philippines đã thực hiện và giành phần thắng vào năm 2016.

Tuy nhiên, trước khi dẫn đến bước đi cuối cùng này, có thể Hà Nội sẽ thực hiện một số bước trước đó. TS. Hà Hoàng Hợp nói: “Tiếp theo đây thì Việt Nam sẽ gặp phía Trung Quốc để bàn xem có thể xử lý trên bàn đàm phán được không. Không phải song phương mà là đa phương”.
Thứ hai là Việt Nam phải tổ chức cho ASEAN đàm phán với Trung Quốc về COC (Bộ quy tắc Ứng xử ở Biển Đông). Vì năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên của ASEAN nên việc đó phải tiếp tục cho đến tháng 11”.
Nếu cuộc họp của ASEAN về COC không thể thực hiện được vào tháng 7 vì lý do dịch COVID-19, thì theo TS. Hà Hoàng Hợp, có thể khối các quốc gia Đông Nam Á sẽ tiến hành họp trực tuyến hoặc hoãn lại. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có quyết định về việc này.
Vẫn theo nhà nghiên cứu này, phán quyết của Tòa trọng tài thường trực vào năm 2016 đối với vụ kiện của Philippines đã bác bỏ đường Lưỡi bò (đường 9 đoạn) mà Trung Quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của mình trên Biển Đông, và phán quyết này không chỉ dành cho Manila mà “đó là một phán quyết phổ quát”. “Nhưng Việt Nam hồi đó lấp lửng”, TS. Hà Hoàng Hợp nói.
Theo ông, đây chính là lúc mà Việt Nam “cần nói rõ” và có bước đi quyết định trong bối cảnh Trung Quốc đã làm thay đổi hiện trạng quá nhiều ở Biển Đông theo hướng quân sự hóa để chuẩn bị cho chiến tranh.

Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng (nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan) nói: “Tố cáo những hành động ấy lên LHQ, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong một lần hiếm hoi như vừa rồi, dám đích danh quy trách nhiệm cho Trung Quốc, chứ không còn là “nước lạ” nữa. Tuy chưa phản ánh hết lòng dân, nhưng hy vọng nó sẽ không còn cái cảnh chính quyền phải xua lực lượng đi đàn áp các cuộc biểu tình hoà bình, tố cáo các tội ác của Trung Quốc trong các cuộc chiến tranh trước đây cũng như các hành động trên Biển Đông.”

Ảnh: Xuồng CQ của bộ đội đảo Sinh Tồn Đông tuần tra bảo vệ đảo tháng 5.2015. Phía xa là nhiều công trình do TQ xây dựng trên Đá Huy Gơ (hay còn gọi là Tư Nghĩa) ở Trường sa thuộc chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc cưỡng chiếm ngày 28.2.1988

Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao (Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển cho rằng đây là một bước đi tiếp nối vững chắc và đúng thời điểm của chính phủ Việt Nam.
Cũng cho rằng đây là quyết đinh đúng thời điểm, Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng nói thêm:
Thứ nhất, Việt Nam đang chuẩn bị Đại hội Đảng, Trung Quốc muốn đánh tiếng, muốn gây sức ép, nhất là quá trình cơ cấu nhân sự mới. Thì đây, Việt Nam trả lời ngay như vậy để nói cho Trung Quốc biết, ai có vào khung cơ cấu này cũng không thể quỳ gối trước Trung Quốc.
Quỳ gối trước Trung Quốc là mất phiếu, và điều quan trọng hơn, đầu hàng Trung Quốc thì bia miệng từ người dân hàng ngàn năm vẫn còn đó.
Thứ hai, giữa mùa Virus Vũ Hán này thế giới hiểu về Trung Quốc hơn, có dịp xác nhận những hành động chống lại thường dân mà ngay trong chiến tranh luật pháp quốc tế cũng cấm các bên tham chiến.
Sau những ầm ĩ giữa Trung Quốc với nhiều nước về quốc tịch của con viruscorona, nhất là sau các vụ đầu cơ khẩu trang và các thiết bị y tế của Trung Quốc, thì Việt Nam và thế giới có dịp hiểu thêm về bản chất lật lọng, đổi trắng thay đen của nhà cầm quyền Trung Quốc
.

Thứ ba, Trung Quốc cho rằng, hiện nay là lúc Mỹ, Việt Nam và thế giới đang tập trung chống dịch nên họ tha hồ“múa gậy vườn hoang”. Nếu Việt Nam không hành động về mặt pháp lý lúc này thì còn nuôi dưỡng những hành động thảo khấu trên Biển Đông đến khi nào nữa?

Thứ tư, đây có thể là một “bước đệm” trên con đường dùng luật pháp quốc tế để nói chuyện phải trái với Trung Quốc.
Phản ứng của Hoa Kỳ thì như mọi người đã biết. Ở đây phải nói thêm là HK ngày càng có thái độ quyết đoán với hành động bắt nạt các nước nhỏ của Trung Quốc, ngôn ngữ của tuyên bố khá mạnh mẽ: Ủng hộ chủ quyền của VN (đây không phải là lần đầu), bác bỏ đường lưỡi bò của Trung Quốc (cái này thì lặp lại phán quyết của CPA). Tuy nhiên, không nên cho rằng, Hoa Kỳ bênh Việt Nam.
Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và châu Âu từng có tiếng nói thống nhất về vấn đề Biển Đông. Lần này chắc cũng không thể khác.
Đây là cơ hội “kim cương” (chứ không chỉ là vàng) đối với Việt Nam. Chiến lược “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do” (FOIP) của Tổng thống Mỹ Donald Trump là cơ hội có một không hai trong lịch sử của Việt Nam và khu vực, khi cùng một lúc ASEAN phải xử lý mối quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực. Ngoại trừ những “Judas phản Chúa” trong ASEAN, các nhà lãnh đạo còn lại trong ASEAN cũng sẽ phải “đường xa nghĩ nỗi sau này”.
Trung Quốc bóp được Việt Nam thì Trung Quốc cũng sẽ không tha bất cứ nước nào khác trong khối
.” TS Đinh Hoàng Thắng kết luận.

Vấn đề Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải của Việt Nam gần đây, đã xảy ra từ năm 1974, khi quân đội nước này tấn công Việt Nam Cộng hòa – một nhà nước có chủ quyền khi đó để độc chiếm Hoàng Sa. Tới năm 1988, lại một lần nữa Trung Quốc tấn công, giết chết 64 chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam để chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam. Kể từ đó đến nay Trung Quốc liên tục tăng mạnh số lượng tàu xâm nhập và hoạt động dài ngày trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà họ tự cho rằng là lãnh hải của Trung Quốc từ thời cổ xưa với đường 9 đoạn (đường lưỡi bò).
Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần sớm kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để nhận được kết quả cuối cùng, đó là phán quyết của Tòa án mà cả 2 bên đều phải thực thi.

Hoàng Trung từ Hà nội – Thoibao.de (Tổng hợp)

Kasse animation 7.8.2023